Upload by Duongnb
Từ cuối năm 2002, trên một số trang web bắt đầu lan đi một bài viết được nói là trích từ hồi kí Những kỉ niệm về Bác Hồ của ông Hoàng Tùng.
Ông Hoàng Tùng nguyên là bí thư Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, nguyên tổng biên tập báo Nhân Dân.
Giống như nhiều bài viết được phổ biến qua internet và ký tên nhiều nhân vật có tên tuổi trong nước như Trần Quang Cơ, Phan Đình Diệu, Lê Đăng Doanh...độ khả tín và tính đầy đủ liền mạch của các tư liệu là điều khó xác quyết 100%. Giới quan sát chỉ có thể dựa trên phân tích văn bản, giọng văn, hay quan hệ thân hữu với các nguồn để đánh giá về chúng.
Dưới đây là trích đoạn của tài liệu này, với các tiêu đề nhỏ do chúng tôi đặt:
Đoạn mở đầu: Tôi có khoảng thời gian gần 25 năm làm việc gần Bác. Tôi được biết một số việc, hoặc được nghe rồi nói lại cho các đồng chí. Có tài liệu các đồng chí có thể sử dụng được, có tài liệu các đồng chí nghiên cứu thêm.
Trong khoảng thời gian 25 năm đó có 3 năm tôi công tác ở xứ, khu và tỉnh, còn tôi liên tục ở Trung ương, lúc đầu tôi làm phó trưởng ban Tổ chức Đảng vụ (cơ quan của Đảng lúc đó gọi như thế), tức là làm phó cho anh Lê Đức Thọ, sau là anh Lê Văn Lương. Sau tôi còn làm chánh văn phòng của đồng chí Trường Chinh, sau cùng là làm công tác Tuyên huấn, báo chí. Các công việc trên giúp tôi có điều kiện gần gũi Bác hơn. Các anh trong Bộ Chính trị cũng có nhiều người đi tù cùng tôi về.
Tôi có may mắn được dự hầu hết các phiên họp Bộ Chính trị hay Ban Bí thư. Nhiều khi Bác bảo tôi làm việc này hay việc khác, tất nhiên là những việc nhỏ thôi. Khi Trung ương họp Bác thường hay ngó trông xem có thấy tôi ngồi ở phía sau không, bởi tôi làm công tác báo chí. Nhiều cuộc họp tôi bị Bác phê bình, nhưng nhiều lần được Bác khen. Hội nghị Trung ương, hội nghị các ngành, hội nghị quân sự, hội nghị cán bộ tôi đều dự cả. Nhiều chuyện tôi biết được từ các cuộc hội nghị này, cố nhiên không phải chuyện gì cũng biết, có chuyện tôi thật sự là nhân chứng, có chuyện thì tôi nghe lỏm được.
Dung hòa quan điểm Xô Trung trong đảng:
Trong Đảng ta có hai nguồn đào tạo, một học ở Liên Xô về, một học ở Trung Quốc về. Do đó họ theo quan điểm hai nơi, có những ý kiến không giống nhau: đôi lúc hục hặc với nhau. Nhưng nói chung cả hai bên đều chịu Bác. Chỉ có Nguyễn Sơn về sau có vấn đề phải ra đi. Trước khi mất Nguyễn Sơn có tâm sự với tôi rằng sai lầm thì phê bình chứ sao lại đuổi đi. Ông ta trách Bác. Lúc đó tôi hỏi anh Võ Nguyên giáp, anh ta hay hục hặc như thế để anh ta làm phó cho anh có được không, Võ Nguyên Giáp nói làm thế nào được. Anh ta suốt ngày chửi tôi, anh ta còn phê bình Trường Nguyễn Ái Quốc rất ghê. Sau Bác nói chú Nguyễn Sơn hữu tài nhưng.... nên mời chú đi.
Thực ra thì cái khó của hai nhóm này không hiểu được tư tưởng biện chứng mác-xít. Ta làm cách mạng ở một nước thuộc địa chứ không phải làm cách mạng ở một nước tư bản, hay quân phiệt nông dân như Trung Quốc. Vấn đề thống nhất dân tộc Việt Nam nhiều người không hiểu được, cho đến tận bây giờ nhiều người vẫn hiểu là phải nhấn mạnh liên minh công nông. Bác có lúc nói Đảng của giai cấp công nhân là theo thời cuộc và cũng là để chiều lòng người. Bác định nghĩa về Đảng đúng nhất là ở Đại hội II. Đảng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, tức là của dân tộc Việt Nam. Bây giờ lại càng đúng, vì nông dân, công nhân có cách biệt gì lớn, không phải là giai cấp bị áp bức, cùng làm chủ cả, cùng là người lao động tự do, thêm một số trí thức nữa, chứ không phải chỉ có giai cấp công nhân vừa mới ra đời mấy chục năm nay.
Bác hết sức sâu sắc nhưng Người không nói ra. Những bài viết, những bài phát biểu của Bác từ năm 1920 đến năm 1925 có phân tích sâu sắc, lý luận sắc bén. Sau này, từ cách mạng tháng Tám trở đi Người viết ngắn gọn đi thẳng vào vấn đề, không phân tích dài dòng để quần chúng dễ hiểu. Hai bên không hiểu, cứ “chiếu tướng” nhau rồi sinh chuyện. Nói Bác lý luận kém là hoàn toàn sai.
Về nhận xét ngoại giao
Tôi nhớ có chuyện thế này, đầu năm 1951, lúc đó tôi là chánh văn phòng của Tổng bí thư nên được dự các cuộc họp của Thường vụ Trung ương. Trong một cuộc họp Thường vụ Trung ương, Bác nói Stalin không được như thế đâu, chỉ vì người ta cần có một ngọn cờ mà đưa lên như thế. Nghĩa là Bác biết rõ Stalin. Người không sùng bái, cũng như không sùng bái Mao Trạch Đông. Nhiều lúc Bác cũng phải ngoại giao.
Cũng như Bác không thích gì Tưởng Giới Thạch, nhưng Bác vẫn dịch cuốn “Trung Quốc mệnh vận” do Tưởng viết, rổi đem biếu Trương Phát Khuê. Tranh thủ để giữ vững chính quyền, giảm được kẻ thù. Bác hết sức tinh trong nhìn nhận tình hình chính trị. Nhưng Người ít nói. Nhiều người không biết cứ tưởng bác mơ hồ trong vấn đề này khác. Chính trị Bác sắc sảo, nhưng Người rất ghét nói ba hoa.
Bác bao giờ cũng vì dân, vì nước, chứ không vì cá nhân mình. Nhiều người sắc sảo nhưng lại vì bản thân mình nhiều, củng cố vị trí của mình nhiều hơn. Nếu người lãnh đạo cách mạng nào cũng được như Bác thì không bao giờ chính quyền bị đổ, vì Bác lúc nào cũng có Đảng, có dân, quan hệ với dân chặt chẽ không bao giờ làm điều gì vì mình, tất cả đều xuất phát vì nhân dân. Tôi cho rằng hiểu được Bác không phải dễ, làm theo Bác càng khó hơn.
Sau chiến thắng 1954, Bác gọi tôi đến và căn dặn: “Ta chiến thắng rồi công tác tuyên truyền chỉ nên biểu dương tinh thần anh dũng của quân và dân ta, không nên sỉ nhục Pháp. Vì như thế sẽ khích động tinh thần tự ái dân tộc của họ. Sau này đối với Mỹ, Bác cũng căn dặn như thế.
Những nỗi đau
Tìm hiểu về Bác tôi thấy Bác có 10 nỗi đau lớn.
Một là gia đình tan nát. Mẹ và người em út mất sớm vì nhà nghèo không đủ tiền mưua thuốc, không ai chăm sóc, trong lúc bố đi vắng. Cụ Nguyễn Sinh Sắc bị thù oán nên bị hại. Tính cụ ngay thẳng, phê phán thẳng thắn những người xấu và làm theo ý mình cho là phải. Bọn quan lại ghét cụ. Nhân có một người bị phạm tôi đưa đến, lệ ngày xa trước khi xử án phải nọc người đó mấy chục roi trước. Chẳng may người phạm tội bị bệnh từ trước nên sau khi bị đánh trả về một thời gian người ta chết. Nhân việc này trên mới cách chức cụ và đầy đi biệt xứ. Còn ông anh và bà chị Bác cũng bị tù đày, rồi sau mất sớm...
...Nỗi đau thứ sáu là Bác không ngờ Liên Xô và Trung Quốc lại xung đột, mẫu thuẫn đến gay gắt như thế. Bác nói phe xã hội chủ nghĩa do Liên Xô và Trung Quốc lãnh đạo. Nhưng Liên Xô và Trung Quốc cùng lãnh đạo thế nào được. Một nước chỉ có một mặt trời. Mao Trạch Đông là mặt trời hay Stalin là mặt trời đây. Liên Xô hay Trung Quốc đứng đầu lãnh đạo. Chỉ có một mà thôi. Hai bên xung đột nên bên nào cũng muốn lôi kéo Bác về phía mình. Bác bị giằng xé trong suốt những năm cuối của cuộc đời...
...Nỗi đau thứ bẩy là sự bất hoà giữa mấy người lãnh đạo của ta. Không phải mọi việc đều êm đẹp cả. Họ nhất trí với nhau về quan điểm đánh Mỹ, nhưng quan điểm quốc tế không thống nhất, về quan hệ cá nhân với nhau không thuận lợi. Sau này Bác bảo tôi viết bài: “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”. Ý Bác là muốn nói mấy ông này. Bài đó tôi viết Bác sửa lại nhiều. Sau Bác nói anh Tố Hữu cũng sửa nữa.
Tôi được biết từ năm 1966, cứ mỗi chiều thứ bẩy, Bác lại cho làm cơm và nói: “Mấy chú cứ đến đây ăn cơm vui vẻ với nhau, có gì khúc mắc cứ nói hêt ra, không nên để bụng”. Anh Nguyễn Chí Thanh làm thư ký cho những cuộc đó cho đến khi anh đi vào Nam. Sau anh Lê Văn Lương nói lại với tôi là họ cứ đến ăn cơm, chén hết rồi họ về, chẳng ai nói với ai điều gì. Nếu không biết việc này thì không hiểu hết tại sao trong di chúc Bác lại dặn phải đoàn kết toàn Đảng, từ Trung ương đến đia phương. Trên mà đã đoàn kết rồi thì cần gì nói đến cơ sở nữa. Trên đoàn kết mà dưới không thì lôi thôi to, các ông trị cho chết. Chính vì thế mà bác rất buồn. Có thể có một vài hiện tượng, có đồng chí nào đó muốn vượt Bác, Bác biết hết, nhưng Bác không quan tâm.
Nỗi đau thứ tám là tình hình trong nước và thế giới trước khi Bác qua đời đều căng thẳng, nên đầu óc Bác không được thư thái. Cuộc kháng chiến chống Mỹ kéo dài, nhân dân ta hy sinh nhiều của, nhiều người, Bác rất đau lòng. Tuy Bác nói là Trường kỳ kháng chiến nhưng thực sự Bác không muốn cuộc chiến tranh phải kéo dài. Từ đầu đến cuối Bác không muốn có chiến tranh. Cho nên mới có cuộc hoà hoãn với Pháp.
Đối với Mỹ cũng thế, Bác muốn tranh thủ, nhưng không được mới phải đánh. Cộng thêm những năm tháng ốm đau kéo dài (trên 3 năm), có lúc Người cáu gắt cũng vì lẽ đó. Tất cả những nỗi đau này Bác không thổ lộ cùng ai, kể cả với anh Lê Duẩn, anh Trường Chinh. Nếu chúng ta không hiểu những nỗi đau của Bác, không hiểu được sự chín chắn, đúng đắn của Bác trong chính trị thì ta sẽ giáo điều, nói không sát.